Một số kiến nghị hoàn thiện trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm tội
Trong những năm qua, tình hình tội phạm do pháp nhân thương mại gây ra có nhiều diễn biến phức tạp với hậu quả rất nghiêm trọng. Trước khi có quy định truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với pháp nhân, các vi phạm của doanh nghiệp, tổ chức phần lớn chỉ bị xử lý hành chính, dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp chấp nhận nộp phạt để tiếp tục vi phạm ( Pháp luật Việt Nam về trách nhiệm hình sự của pháp nhân ) ( Pháp luật Việt Nam về trách nhiệm hình sự của pháp nhân ). Chế tài hành chính tối đa đối với pháp nhân (thông thường không quá 2 tỷ đồng, hoặc thậm chí thấp hơn tùy lĩnh vực) bị đánh giá là thiếu tính răn đe đối với các pháp nhân có tiềm lực lớn ( Pháp luật Việt Nam về trách nhiệm hình sự của pháp nhân ). Thực tế cũng cho thấy một số hành vi nguy hiểm do pháp nhân thực hiện (như mua bán người, tham nhũng, rửa tiền) trước đây không có chế tài xử phạt phù hợp trong pháp luật hành chính ( Pháp luật Việt Nam về trách nhiệm hình sự của pháp nhân ). Bối cảnh này đòi hỏi cần có biện pháp mạnh hơn về hình sự để xử lý nghiêm các vi phạm do pháp nhân gây ra.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đó, Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) lần đầu tiên quy định pháp nhân thương mại là chủ thể có thể bị truy cứu TNHS. Đây là một bước tiến quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả răn đe, phòng ngừa đối với tội phạm do pháp nhân gây ra (Một số kiến nghị hoàn thiện trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm tội). Việc đưa pháp nhân thương mại vào chủ thể của tội phạm được kỳ vọng sẽ khắc phục tình trạng “nhờn luật” của một bộ phận doanh nghiệp, bảo đảm xử lý nghiêm minh, kịp thời và không bỏ lọt tội phạm (Một số kiến nghị hoàn thiện trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm tội). Đồng thời, quy định này cũng phù hợp với xu hướng quốc tế và lý luận pháp luật hình sự hiện đại, coi pháp nhân là một thực thể pháp lý độc lập có quyền và nghĩa vụ, do đó phải chịu TNHS tương ứng khi có hành vi phạm tội ( Pháp luật Việt Nam về trách nhiệm hình sự của pháp nhân ). Tuy nhiên, do đây là một chế định mới, quá trình thực thi đã bộc lộ những bất cập nhất định cần được hoàn thiện.
Cơ sở pháp lý: Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, không phải mọi tổ chức đều thuộc diện chịu TNHS, mà chỉ giới hạn ở pháp nhân thương mại (PNTM). Điều 75 Bộ luật Dân sự 2015 định nghĩa PNTM là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận, lợi nhuận được chia cho các thành viên, bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác (trừ doanh nghiệp tư nhân) (Một số kiến nghị hoàn thiện trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm tội). Trên cơ sở đó, Bộ luật Hình sự 2015 đã thiết lập các điều kiện chặt chẽ để một PNTM phải chịu TNHS. Cụ thể, khoản 1 Điều 75 Bộ luật Hình sự 2015 quy định PNTM chỉ phải chịu TNHS khi có đủ 4 điều kiện sau đây: (a) hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân; (b) hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân; (c) hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân; và (d) chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS theo quy định của pháp luật (Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại - Ban Nội Chính Trung ương ). Nói cách khác, tội phạm do pháp nhân thực hiện phải là hành vi do người đứng đầu hoặc người được ủy quyền của pháp nhân tiến hành dưới danh nghĩa pháp nhân, nhằm mang lại lợi ích cho pháp nhân và có sự chấp thuận hoặc chỉ đạo của pháp nhân đó, đồng thời hành vi vẫn còn trong thời hạn được pháp luật cho phép truy cứu TNHS. Đáng chú ý, pháp luật cũng khẳng định việc pháp nhân bị truy cứu TNHS không loại trừ TNHS của cá nhân có liên quan (Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại - Ban Nội Chính Trung ương ). Điều này có nghĩa là khi một pháp nhân thương mại phạm tội, các cá nhân trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội đó (như giám đốc, nhân viên liên quan) vẫn bị truy cứu như bình thường. Quy định này bảo đảm không cá nhân nào có thể “núp bóng” pháp nhân để trốn tránh trách nhiệm.
Bên cạnh điều kiện về chủ thể và hành vi, pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành giới hạn phạm vi tội danh mà pháp nhân thương mại có thể bị truy cứu. Khoản 2 Điều 2 BLHS 2015 quy định chỉ những PNTM nào phạm tội được quy định tại Điều 76 BLHS mới phải chịu TNHS (Về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại và những vấn đề đặt ra). Theo Điều 76 BLHS, hiện nay pháp nhân thương mại chỉ chịu TNHS đối với 33 tội danh cụ thể thuộc 3 nhóm: các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, các tội về môi trường, và một số tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự quản lý công cộng (Về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại và những vấn đề đặt ra) (Hoàn thiện quy định pháp luật về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại | Tạp chí Quản lý nhà nước). Chẳng hạn, các tội về kinh tế gồm buôn lậu (Điều 188), trốn thuế (Điều 200), gian lận bảo hiểm (Điều 213)...; các tội về môi trường gồm gây ô nhiễm môi trường (Điều 235), vi phạm quy định về quản lý rừng (Điều 232)...; nhóm còn lại có tội tài trợ khủng bố (Điều 300), rửa tiền (Điều 324) v.v. Ngoài những tội danh liệt kê này, pháp nhân không bị xử lý hình sự về các tội khác. Đây là điểm khác biệt cơ bản so với cá nhân phạm tội, vốn có thể chịu TNHS về mọi tội danh nếu thỏa mãn yếu tố cấu thành.
Thực trạng áp dụng: Kể từ khi Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017) có hiệu lực, việc truy cứu TNHS đối với pháp nhân thương mại trên thực tế còn hạn chế. Trong những năm đầu tiên, số vụ án khởi tố pháp nhân hầu như rất ít. Theo một số thống kê, từ khi luật có hiệu lực đến khoảng năm 2021, chưa có pháp nhân thương mại nào bị khởi tố theo thủ tục tố tụng hình sự (Hoàn thiện quy định pháp luật về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại | Tạp chí Quản lý nhà nước). Mặc dù trên thực tế đã xuất hiện không ít hành vi vi phạm thỏa mãn dấu hiệu tội phạm của pháp nhân, cơ quan chức năng vẫn chủ yếu áp dụng chế tài hành chính thay vì hình sự (Hoàn thiện quy định pháp luật về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại | Tạp chí Quản lý nhà nước). Gần đây hơn (tính đến năm 2025), đã bắt đầu xuất hiện một số trường hợp pháp nhân bị truy cứu TNHS, tập trung ở các tội về thuế, môi trường, hoặc kinh tế. Chẳng hạn, có những doanh nghiệp đã bị khởi tố về tội trốn thuế hoặc gây ô nhiễm môi trường, với các tình tiết thể hiện rõ hành vi phạm tội được thực hiện dưới danh nghĩa công ty và vì lợi ích kinh tế của công ty đó. Tuy nhiên, so với tổng số vi phạm do pháp nhân thực hiện, số vụ bị xử lý hình sự vẫn rất khiêm tốn.
Nguyên nhân của tình trạng trên xuất phát từ nhiều khó khăn trong áp dụng pháp luật. Trước hết, đây là lĩnh vực hoàn toàn mới, đòi hỏi thời gian để các cơ quan tố tụng tích lũy kinh nghiệm. Việc chứng minh lỗi của pháp nhân trong vụ án hình sự phức tạp hơn so với cá nhân, do phải xác định được mối liên hệ giữa hành vi của cá nhân cụ thể và chủ trương, lợi ích của pháp nhân. Trong quá trình điều tra, không dễ thu thập chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội “có sự chỉ đạo, chấp thuận” của pháp nhân, nhất là khi các quyết định thường ẩn dưới dạng nghị quyết nội bộ, thỏa thuận ngầm. Ngoài ra, vướng mắc còn đến từ chính khuôn khổ pháp lý chưa hoàn thiện: hiện thiếu các hướng dẫn chi tiết về thủ tục tố tụng đối với pháp nhân. Ví dụ, nếu một pháp nhân đang trong quá trình giải thể hoặc phá sản thì việc xác định đại diện hợp pháp để tố tụng gặp khó khăn; hoặc trường hợp pháp nhân cố tình chấm dứt hoạt động nhằm trốn tránh trách nhiệm hình sự, pháp luật hiện hành chưa quy định rõ hướng xử lý (liệu có đình chỉ vụ án hay vẫn tiếp tục truy cứu trách nhiệm được hay không) (Một số kiến nghị hoàn thiện trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm tội). Những vấn đề này khiến cơ quan tiến hành tố tụng có tâm lý thận trọng, dẫn đến ít nhiều lúng túng khi áp dụng trên thực tế.
Mặc dù việc quy định TNHS của pháp nhân thương mại trong BLHS 2015 là cần thiết, nhưng hệ thống pháp luật hiện hành vẫn còn một số bất cập, hạn chế sau:
Thứ nhất, phạm vi tội phạm chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân còn quá hẹp. Như đã đề cập, pháp nhân thương mại chỉ phải chịu TNHS về 33 tội danh được liệt kê, chủ yếu thuộc lĩnh vực kinh tế, môi trường và trật tự công cộng (Hoàn thiện quy định pháp luật về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại | Tạp chí Quản lý nhà nước). Điều này đồng nghĩa với việc nhiều tội phạm nghiêm trọng khác dù pháp nhân có thể tham gia hoặc tiếp tay vẫn không thể truy cứu TNHS đối với pháp nhân. Chẳng hạn, các tội về tham nhũng, xâm phạm trật tự quản lý về chức vụ (đưa hối lộ, nhận hối lộ), tội mua bán người, tội rửa tiền,… hiện nay pháp nhân thương mại không phải chịu TNHS. Đây là một hạn chế lớn, bởi trên thực tế không ít doanh nghiệp, tổ chức có thể liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến những hành vi phạm tội này (ví dụ: doanh nghiệp hối lộ quan chức để giành hợp đồng; công ty tài chính tiếp tay rửa tiền; tổ chức môi giới kết hôn trá hình để buôn người). Việc pháp luật hình sự bỏ trống những tội danh nêu trên đối với pháp nhân dẫn đến thiếu công bằng giữa các loại chủ thể và chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. So sánh với thông lệ quốc tế, nhiều nước cho phép truy cứu TNHS pháp nhân về các tội tham nhũng, rửa tiền, tội xâm phạm nhân quyền,... do đó phạm vi quy định của Việt Nam hiện nay là tương đối thu hẹp.
Thứ hai, chưa có sự rõ ràng trong cách xác định lỗi của pháp nhân thương mại. Bản thân pháp nhân là một thực thể pháp lý trừu tượng, không có ý chí như con người, nên việc quy trách nhiệm hình sự phải thông qua hành vi và lỗi của cá nhân cụ thể (người đại diện, người được ủy quyền...). BLHS 2015 tuy đã đặt ra điều kiện “có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân” (điều kiện (c) nêu ở trên) như một dấu hiệu của lỗi pháp nhân, nhưng chưa có giải thích rõ ràng về hình thức lỗi (cố ý hay vô ý) đối với pháp nhân. Trên phương diện lập pháp, đang tồn tại sự thiếu thống nhất: Khoản 1 Điều 8 BLHS 2015 (định nghĩa tội phạm) liệt kê chủ thể tội phạm bao gồm cá nhân hoặc pháp nhân thương mại thực hiện hành vi phạm tội một cách cố ý hoặc vô ý, hàm ý rằng pháp nhân có thể tự mình thực hiện tội phạm (Hoàn thiện quy định pháp luật về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại | Tạp chí Quản lý nhà nước). Tuy nhiên, khoản 1 Điều 75 BLHS lại quy định pháp nhân chỉ chịu TNHS khi hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân, tức chủ thể trực tiếp thực hiện vẫn là cá nhân, pháp nhân không thể tự mình ra tay phạm tội (Hoàn thiện quy định pháp luật về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại | Tạp chí Quản lý nhà nước). Điều này dẫn đến cách hiểu lúng túng: pháp nhân là chủ thể của tội phạm, nhưng lại không tự thực hiện hành vi phạm tội. Việc quy lỗi cho pháp nhân vì thế mang tính gián tiếp, và BLHS chưa làm rõ mức độ lỗi của pháp nhân trong trường hợp cá nhân của pháp nhân vượt quá thẩm quyền hoặc vì động cơ cá nhân. Chẳng hạn, nếu một giám đốc lợi dụng danh nghĩa công ty để phạm tội nhưng nhằm mục đích tư lợi cá nhân thay vì lợi ích công ty, thì pháp nhân có được coi là có lỗi hay không? Hiện chưa có văn bản hướng dẫn chi tiết để phân định rạch ròi các trường hợp này. Thêm vào đó, việc phân loại mức độ nghiêm trọng của tội phạm đối với pháp nhân cũng chưa được quy định cụ thể. BLHS có các khung phân loại tội phạm (ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng) dựa trên hình phạt đối với cá nhân, nhưng đối với pháp nhân thì không nêu rõ tương ứng ra sao. Điều này dẫn đến lúng túng khi áp dụng các quy định về thời hiệu truy cứu TNHS cho pháp nhân, bởi thời hiệu phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của tội phạm (Một số kiến nghị hoàn thiện trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm tội).
Thứ ba, thiếu hướng dẫn cụ thể từ cơ quan có thẩm quyền. Mặc dù chế định TNHS của pháp nhân thương mại đã có hiệu lực vài năm, cho đến nay vẫn chưa có nhiều văn bản hướng dẫn thi hành chi tiết từ các cơ quan lập pháp và tư pháp. Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao chưa ban hành thông tư liên tịch hoặc nghị quyết hướng dẫn riêng về chứng minh tội phạm pháp nhân, cách áp dụng hình phạt đối với pháp nhân, v.v. Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 đã bổ sung một chương (Chương XXIX) quy định thủ tục tố tụng đối với pháp nhân (Điều 431 – 446), tuy nhiên nhiều vấn đề cụ thể trong thực tiễn cần được hướng dẫn thêm. Chẳng hạn, như đã nêu: cách xác định người đại diện theo pháp luật của pháp nhân trong quá trình tố tụng (nhất là khi pháp nhân thay đổi người đại diện, hoặc đang trong thủ tục phá sản), việc xử lý tài sản của pháp nhân khi bị áp dụng hình phạt tiền, hoặc trường hợp pháp nhân giải thể, sáp nhập trong khi vụ án đang thụ lý. Ngoài ra, vấn đề hình thức lỗi của pháp nhân, điều kiện và phạm vi áp dụng các biện pháp tư pháp đối với pháp nhân cũng cần sự giải thích thống nhất (Một số kiến nghị hoàn thiện trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm tội). Sự thiếu vắng hướng dẫn từ cơ quan có thẩm quyền dẫn đến cách hiểu và vận dụng chưa đồng bộ giữa các địa phương, một số nơi lúng túng không dám khởi tố pháp nhân vì sợ làm sai, làm ảnh hưởng đến quyền lợi bên thứ ba (ví dụ người lao động, cổ đông công ty). Đây là khoảng trống cần sớm được lấp đầy nhằm bảo đảm hiệu lực của pháp luật.
Thứ tư, chế tài xử lý đối với pháp nhân thương mại còn một số hạn chế. Bộ luật Hình sự 2015 quy định các hình phạt áp dụng cho pháp nhân gồm: phạt tiền, đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc vĩnh viễn, cấm kinh doanh, cấm hoạt động lĩnh vực nhất định, cấm huy động vốn (những hình phạt này có thể là chính hoặc bổ sung tùy tội) (Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại - Ban Nội Chính Trung ương ) (Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại - Ban Nội Chính Trung ương ). Ngoài ra, tòa án có thể áp dụng các biện pháp tư pháp buộc pháp nhân khắc phục hậu quả, như: bồi thường thiệt hại, khôi phục lại tình trạng ban đầu, tiêu hủy vật phẩm vi phạm, v.v (Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại - Ban Nội Chính Trung ương ) (Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại - Ban Nội Chính Trung ương ). Mặc dù hệ thống chế tài có vẻ đầy đủ, song trong thực tế có một số điểm làm giảm hiệu quả răn đe đối với pháp nhân:
Mức phạt tiền tối thiểu đối với pháp nhân phạm tội là 50 triệu đồng (Điều 77 BLHS) (Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại - Ban Nội Chính Trung ương ), và tùy tội danh, mức phạt tối đa có thể lên đến hàng tỷ đồng (ví dụ: tội gây ô nhiễm môi trường theo Khoản 5 Điều 235 BLHS có mức phạt đến 5 tỷ đồng). Tuy nhiên, so với tiềm lực tài chính của nhiều doanh nghiệp lớn, mức tiền phạt này đôi khi chưa tương xứng với lợi ích mà họ thu được từ hành vi phạm tội. Một số doanh nghiệp có thể coi khoản tiền phạt (dù là vài tỷ) như “chi phí kinh doanh” và sẵn sàng nộp phạt để đổi lấy lợi nhuận cao hơn ( Pháp luật Việt Nam về trách nhiệm hình sự của pháp nhân ) ( Pháp luật Việt Nam về trách nhiệm hình sự của pháp nhân ). Nếu hình phạt tiền không đủ sức răn đe, pháp nhân sẽ không “chùn bước” trước việc vi phạm pháp luật.
Hình phạt đình chỉ hoạt động có thời hạn (từ 6 tháng đến 3 năm) và đình chỉ hoạt động vĩnh viễn được áp dụng cho những trường hợp tội phạm nghiêm trọng gây thiệt hại lớn về tính mạng, môi trường, trật tự xã hội (Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại - Ban Nội Chính Trung ương ). Tuy nhiên, trên thực tế việc áp dụng đình chỉ hoạt động đối với doanh nghiệp cũng rất hạn chế, bởi hình phạt này có thể ảnh hưởng tới người lao động, đối tác kinh doanh và môi trường đầu tư. Tòa án có thể e ngại áp dụng đình chỉ hoạt động nếu hậu quả gián tiếp của nó gây thiệt hại cho nhiều bên liên quan không tham gia hành vi phạm tội.
Các hình phạt cấm kinh doanh, cấm hoạt động lĩnh vực nhất định, cấm huy động vốn (Điều 80, 81 BLHS) thường có thời hạn tối đa 1 đến 3 năm (Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại - Ban Nội Chính Trung ương ). Thời hạn này tương đối ngắn, chưa chắc đã đủ để loại trừ nguy cơ tái phạm của pháp nhân trong lĩnh vực bị cấm. Hơn nữa, do thiếu cơ chế giám sát sau kết án, sau khi mãn hạn cấm, pháp nhân có thể trở lại hoạt động bình thường mà không đảm bảo đã cải tổ, tuân thủ pháp luật hơn trước.
Một hạn chế khác là khả năng pháp nhân “né” chế tài bằng cách thay đổi cơ cấu tổ chức. Ví dụ, sau khi phạm tội và trước khi bị đưa ra xét xử, pháp nhân có thể chuyển nhượng tài sản, cho giải thể hoặc phá sản. Nếu không có biện pháp ngăn chặn hữu hiệu, đến khi tòa tuyên phạt tiền thì pháp nhân không còn tài sản để thi hành, hoặc pháp nhân đã không còn tồn tại, dẫn đến việc hình phạt bị vô hiệu hóa. Pháp luật hiện hành chưa có quy định chi tiết về xử lý tình huống này (chẳng hạn, có thể chuyển hình phạt sang cho pháp nhân mới kế thừa hay truy cứu người đứng đầu về tội danh tương ứng hay không).
Những hạn chế nêu trên trong chế tài xử lý làm giảm sức mạnh răn đe của luật hình sự đối với pháp nhân thương mại. Hiệu ứng “nhờn luật” có thể xảy ra nếu pháp nhân thấy rằng hình phạt không đủ nặng hoặc có thể lách được.
Để khắc phục các bất cập hiện hành và nâng cao hiệu quả thực thi quy định về TNHS của pháp nhân thương mại, cần thực hiện một số giải pháp hoàn thiện pháp luật sau:
Thứ nhất, sửa đổi các điều kiện truy cứu TNHS đối với pháp nhân thương mại cho chặt chẽ, hợp lý hơn. Như phân tích ở trên, trong 4 điều kiện tại khoản 1 Điều 75 BLHS, điều kiện (a) (hành vi phạm tội nhân danh pháp nhân) và điều kiện (c) (có sự chỉ đạo, chấp thuận của pháp nhân) thực chất có mối quan hệ mật thiết, chưa hoàn toàn độc lập. Nếu một cá nhân thực hiện tội phạm nhân danh pháp nhân thì gần như luôn có sự đồng ý hoặc chỉ đạo từ pháp nhân đó, và ngược lại nếu đã có chủ trương, chỉ đạo của lãnh đạo pháp nhân thì hành vi ắt hẳn được thực hiện dưới danh nghĩa pháp nhân (Một số kiến nghị hoàn thiện trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm tội). Do đó, nên gộp điều kiện (a) và (c) thành một điều kiện chung, thể hiện rằng hành vi phạm tội do pháp nhân thực hiện phải mang dấu ấn của pháp nhân (về cả danh nghĩa và ý chí chỉ đạo của pháp nhân). Việc gộp này giúp tránh trùng lặp, đơn giản hóa việc áp dụng mà không làm giảm tính chặt chẽ của quy định. Bên cạnh đó, cần bổ sung quy định hoặc giải thích rõ về trường hợp hành vi do người của pháp nhân thực hiện vượt quá phạm vi được giao hoặc vì mục đích cá nhân: khi đó pháp nhân có phải chịu TNHS hay không. Quy định minh thị sẽ giúp ranh giới trách nhiệm pháp nhân – cá nhân rõ ràng hơn, tránh tình trạng suy diễn khác nhau. Ngoài ra, pháp luật cũng nên xác định rõ trách nhiệm liên đới giữa pháp nhân và cá nhân: ví dụ nếu pháp nhân đã bị phạt tiền thì cá nhân có còn bị phạt tiền nữa không, hay việc miễn trách nhiệm cho cá nhân có ảnh hưởng đến pháp nhân không, v.v. Những điểm này nếu được quy định đồng bộ sẽ bảo đảm tính logic và công bằng của chế định TNHS pháp nhân.
Thứ hai, ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành chi tiết về TNHS của pháp nhân. Vai trò của án lệ, nghị quyết hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và thông tư liên tịch giữa các cơ quan tư pháp là rất quan trọng để các quy định mới đi vào cuộc sống. Do đó, kiến nghị sớm ban hành văn bản hướng dẫn toàn diện về xác định tội phạm pháp nhân và thủ tục tố tụng đối với pháp nhân phạm tội. Văn bản này cần làm rõ một số vấn đề như: hình thức lỗi của pháp nhân (trường hợp nào coi là lỗi cố ý của pháp nhân, trường hợp nào là lỗi vô ý); cách xác định đại diện pháp nhân trong các tình huống pháp nhân thay đổi tổ chức (sáp nhập, chia tách, giải thể); xử lý việc pháp nhân không còn tồn tại hoặc mất năng lực pháp lý trong quá trình tố tụng; phân loại tội phạm đối với pháp nhân (quy định tương ứng mức độ nghiêm trọng của tội danh để áp dụng thời hiệu và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ phù hợp) (Một số kiến nghị hoàn thiện trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm tội); và hướng dẫn áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp đối với pháp nhân (ví dụ điều kiện áp dụng đình chỉ hoạt động, trường hợp nào được coi là “có khả năng khắc phục” để áp dụng đình chỉ có thời hạn thay vì vĩnh viễn, v.v.). Song song đó, cũng cần hướng dẫn về thủ tục tố tụng đặc thù: trình tự khởi tố, điều tra với bị can là pháp nhân; quyền và nghĩa vụ của pháp nhân trong các giai đoạn tố tụng (triệu tập pháp nhân ra tòa thông qua người đại diện, cách thức lấy lời khai pháp nhân...); cũng như biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế (có thể áp dụng kê biên tài sản của pháp nhân trong giai đoạn điều tra để đảm bảo thi hành án sau này hay không). Những hướng dẫn chi tiết này sẽ giúp các cơ quan tiến hành tố tụng có cơ sở pháp lý vững chắc, bảo đảm sự thống nhất trong toàn quốc, tránh mỗi nơi hiểu một kiểu. Kiến nghị Chính phủ, Tòa án tối cao, Viện kiểm sát tối cao, Bộ Công an phối hợp xây dựng thông tư liên tịch hoặc nghị quyết hướng dẫn sớm nhất có thể.
Thứ ba, nghiên cứu mở rộng thêm các tội danh mà pháp nhân thương mại phải chịu TNHS. Để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong bối cảnh hội nhập quốc tế, cũng như tương thích với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đã đến lúc xem xét mở rộng phạm vi tội phạm áp dụng đối với pháp nhân. BLHS hiện hành mặc dù đã nâng từ 31 lên 33 tội danh vào năm 2017, nhưng vẫn bỏ sót nhiều loại tội phạm nghiêm trọng khác (Một số kiến nghị hoàn thiện trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm tội). Theo người viết, pháp luật nên bổ sung một số tội sau vào danh mục pháp nhân chịu TNHS (cùng với cá nhân phạm tội):
Các tội về tham nhũng, chức vụ: điển hình như tội nhận hối lộ (Điều 354) và tội đưa hối lộ (Điều 364). Thực tiễn cho thấy không ít pháp nhân (công ty, tập đoàn) sẵn sàng đưa hối lộ cho quan chức để giành lợi thế kinh doanh, dự án, gây méo mó môi trường cạnh tranh (Một số kiến nghị hoàn thiện trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm tội). Mặc dù pháp nhân không thể bị phạt tù, việc truy cứu pháp nhân về hành vi này (song song với cá nhân người đưa hối lộ) sẽ tăng tính răn đe rất lớn, vì doanh nghiệp sẽ phải cân nhắc thiệt hại lâu dài (uy tín, tài sản) nếu bị kết án hình sự. Việt Nam cũng có nghĩa vụ phòng chống tham nhũng theo Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng (UNCAC), nên việc hình sự hóa trách nhiệm pháp nhân trong lĩnh vực này là phù hợp.
Tội mua bán người (Điều 150): Trong một số vụ việc, tổ chức tội phạm có thể đội lốt doanh nghiệp (công ty môi giới hôn nhân, công ty xuất khẩu lao động) để thực hiện hành vi buôn người xuyên quốc gia vì lợi nhuận (Một số kiến nghị hoàn thiện trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm tội). Việc bổ sung TNHS pháp nhân cho tội danh này sẽ giúp xử lý tận gốc đường dây tội phạm, thay vì chỉ truy cứu những cá nhân riêng lẻ và để pháp nhân vô can tiếp tục hoạt động.
Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nghiêm trọng khác: Ví dụ tội rửa tiền (Điều 324) và tội tài trợ khủng bố (Điều 300) hiện đã có trong danh mục 33 tội của pháp nhân, nhưng cần xem xét thêm tội gian lận tài chính, tội trốn tránh nghĩa vụ thuế quy mô lớn, hoặc tội vi phạm quy định về an toàn lao động gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Những tội này nếu pháp nhân vi phạm mà chỉ xử lý cá nhân thì chưa đủ sức nặng, trong khi truy cứu pháp nhân sẽ tạo áp lực buộc doanh nghiệp tuân thủ nghiêm chỉnh hơn các quy định pháp luật.
Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng khác: Ví dụ, tội tổ chức đánh bạc hoặc rửa tiền qua hệ thống ngân hàng, nếu ngân hàng hay tổ chức tài chính cố tình làm ngơ hoặc tiếp tay thì cũng nên chịu TNHS. Hay tội phạm công nghệ cao như phát tán virus, phần mềm độc hại: nếu do một pháp nhân thực hiện (như công ty phần mềm tạo mã độc để trục lợi) thì cũng cần có chế tài hình sự đối với pháp nhân đó.
Việc mở rộng tội danh áp dụng cho pháp nhân cần được cân nhắc kỹ lưỡng và có lộ trình, có thể thực hiện trong lần sửa đổi BLHS sắp tới. Mở rộng phải đảm bảo phù hợp với khả năng quản lý, kiểm soát tội phạm của Nhà nước, tránh mở quá rộng dẫn đến khó áp dụng. Tuy nhiên, xu hướng chung là nên tiệm cận chuẩn mực quốc tế: pháp nhân thương mại có thể chịu TNHS về hầu hết các tội phạm kinh tế, môi trường, và thậm chí một số tội xâm phạm trật tự xã hội nghiêm trọng. Điều này góp phần nâng cao hiệu quả phòng chống tội phạm, bảo đảm trật tự, an toàn cho xã hội trong bối cảnh hoạt động của pháp nhân ngày càng đa dạng (Một số kiến nghị hoàn thiện trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm tội).
Thứ tư, tăng cường chế tài xử lý để nâng cao hiệu quả răn đe đối với pháp nhân phạm tội. Song song với việc mở rộng phạm vi truy cứu, cần sửa đổi, bổ sung các quy định về hình phạt đối với pháp nhân theo hướng nghiêm khắc và triệt để hơn:
Nâng mức phạt tiền tối đa đối với pháp nhân ở một số tội nghiêm trọng. Hiện nay, nhiều tội quy định khung phạt tiền tối đa vài trăm triệu đến vài tỷ đồng cho pháp nhân. Nên xem xét tăng trần này đối với những tội mà lợi ích thu được từ hành vi phạm tội có thể rất lớn (ví dụ trốn thuế, buôn lậu số lượng lớn...). Mức phạt cần đủ sức răn đe để “tội phạm không có lãi”. Thậm chí có thể bổ sung quy định phạt tiền theo % doanh thu hoặc lợi nhuận của pháp nhân trong trường hợp vi phạm đặc biệt nghiêm trọng, thay vì cố định con số tuyệt đối. Cách này nhiều nước đã áp dụng, đảm bảo công ty càng lớn, vi phạm càng nặng thì phạt càng cao.
Bổ sung hình phạt hoặc biện pháp tư pháp mới mang tính kiểm soát, khắc phục: Chẳng hạn, có thể áp dụng hình thức giám sát tư pháp đối với pháp nhân trong một thời gian sau khi chấp hành xong hình phạt (tương tự án treo nhưng áp dụng cho pháp nhân). Theo đó, trong thời gian giám sát, pháp nhân phải tuân thủ một số nghĩa vụ nhất định (báo cáo định kỳ về việc tuân thủ pháp luật, chịu sự kiểm tra của cơ quan có thẩm quyền...). Nếu tái phạm trong thời gian này sẽ bị xử lý nghiêm hơn. Biện pháp này giúp đảm bảo pháp nhân thực sự cải tạo, phòng ngừa tái phạm.
Quy định cơ chế ngăn chặn việc tẩu tán tài sản, giải thể pháp nhân để trốn tránh phạt. Ví dụ, khi khởi tố pháp nhân, có thể áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản của pháp nhân như một biện pháp ngăn chặn đặc thù. Nếu phát hiện pháp nhân đang tiến hành thủ tục giải thể, cần có quy định tạm dừng thủ tục giải thể cho đến khi vụ án hình sự kết thúc, tránh việc pháp nhân “biến mất” trước khi bị kết án. Những quy định này có thể bổ sung vào Bộ luật Tố tụng Hình sự hoặc Luật Doanh nghiệp để tạo sự phối hợp liên ngành.
Tăng cường công khai, minh bạch thông tin xử lý pháp nhân phạm tội. Uy tín và thương hiệu có vai trò sống còn với doanh nghiệp. Vì vậy, một chế tài gián tiếp nhưng rất hữu hiệu là quy định việc công bố công khai trên phương tiện thông tin đại chúng về bản án đối với pháp nhân phạm tội, nhất là các doanh nghiệp lớn. Khi dư luận, người tiêu dùng biết một công ty từng phạm tội, uy tín doanh nghiệp sẽ suy giảm, qua đó doanh nghiệp khác sẽ lấy đó làm bài học răn đe. Hiện nay việc công khai bản án đã được thực hiện trên Cổng thông tin điện tử của tòa án, nhưng nên có quy định bắt buộc thông báo rộng rãi hơn đối với trường hợp pháp nhân bị kết án về các tội nghiêm trọng hoặc liên quan đến lĩnh vực công ích (môi trường, an toàn thực phẩm...).
Tóm lại, hệ thống chế tài cần được hoàn thiện theo hướng mạnh mẽ, linh hoạt hơn. Vừa đảm bảo phạt nghiêm khắc tương xứng hành vi, vừa có cơ chế ngăn ngừa việc lách luật, và chú trọng biện pháp phục hồi, ngăn chặn hậu quả tái diễn. Chỉ khi pháp nhân thấy rõ cái giá phải trả rất lớn cho hành vi phạm tội, họ mới thực sự cân nhắc tuân thủ pháp luật.
Việc quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại trong Bộ luật Hình sự năm 2015 là một bước đi đúng đắn và cần thiết, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm do pháp nhân gây ra. Tuy nhiên, qua một thời gian triển khai, các quy định hiện hành đã bộc lộ một số hạn chế nhất định về phạm vi áp dụng, kỹ thuật lập pháp và hướng dẫn thi hành. Để chế định này phát huy hiệu quả, bảo đảm mọi hành vi nguy hiểm do pháp nhân thực hiện đều bị xử lý nghiêm minh, hệ thống pháp luật cần được tiếp tục hoàn thiện.
Những kiến nghị trên đây tập trung vào việc mở rộng phạm vi truy cứu phù hợp thông lệ quốc tế, làm rõ hơn bản chất lỗi của pháp nhân, bổ sung hướng dẫn áp dụng thống nhất, và tăng cường chế tài đủ sức răn đe. Việc sửa đổi, bổ sung này nếu được tiến hành kịp thời sẽ tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc cho cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm liên quan đến pháp nhân, góp phần bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích của Nhà nước, của người bị hại cũng như tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng (Hoàn thiện quy định pháp luật về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại | Tạp chí Quản lý nhà nước). Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại là lĩnh vực mới nhưng tất yếu trong tiến trình phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam. Sự hoàn thiện không ngừng của các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng sẽ đảm bảo rằng pháp nhân thương mại khi phạm tội sẽ không thể “đứng ngoài” pháp luật, qua đó nâng cao hiệu quả răn đe, phòng ngừa chung và thể hiện tinh thần thượng tôn pháp luật trong nền kinh tế thị trường.
Tài liệu tham khảo:
Luật Uni
Tư Vấn Pháp Luật Miễn Phí và Dịch Vụ Thám Tử Tư
Wedsite: https://luatuni.vn/
Hotline: 0913569869. 0985042555
Địa chỉ cơ sở 1: Toà nhà 41-43 Trần Cao Vân, phường Võ Thị Sáu, Quận 3, tp HCM
Dia chỉ cơ sở 2: số 8/14 Nguyễn Trãi, khu phố 1, phường 22, quận 5, tp HCM
📌 Website: https://luatuni.vn/
📞 Hotline: 0913 569 869 | 0985 042 555
✉️ Email: luatuni.vn@gmail.com
🌐 Facebook: luatuni.vn@gmail.com
🏢 Cơ sở HCM 1: Tòa nhà 41-43 Trần Cao Vân, P. Võ Thị Sáu, Q.3, TP. HCM
🏢 Cơ sở HCM 2: Số 8/14 Nguyễn Trãi, Khu phố 1, P.22, Q.5, TP. HCM
🏢 Cơ sở HÀ NỘI: Lô C11, Khu 15, Đông Quan, Phường Quan Hoa, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.